Bà rất sợ nợ nần. Con dâu bà thì lại khác, có của ăn của để mà cứ đi vay mượn mua bất động sản, rồi bắt chồng con vất vả theo. Con trai bà ngán người vợ mở miệng ra là “tiền, tiền”, nhưng cuối cùng anh cũng chịu “cày bừa” để trả nợ. Sở hữu những căn Bố mẹ chồng tôi biết chuyện thì vô cùng phẫn nộ, họ ép chồng phải ly hôn tôi. Chồng tôi từ miền Nam trở về, anh vừa sốc, vừa đau khổ. Tôi khóc rất nhiều, cầu xin anh tha thứ, xin anh cho tôi một cơ hội. Cuối cùng, vì thương tôi, thương con, anh đã quyết định không Chồng dùng đòn roi để phạt tôi. Chồng tôi có học vị cao, ăn nói điềm đạm, tính tình hiền lành, rất biết đối nhân xử thế. Tôi học vị thấp hơn chồng một bậc, tính nóng nảy, đanh đá, không dễ gì người ngoài bắt nạt được. Từ khi lấy chồng, tính tôi ôn hòa Vợ tịch thu hết lương của chồng có bị phạt không? 1. Xử phạt hành chính. Theo quy định tại Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP thì: Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: - Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người Theo đó, chỉ khi có hành vi "chiếm đoạt tài sản riêng" của thành viên trong gia đình (cha, mẹ, vợ, chồng, con đẻ, con nuôi, anh, chị, em) mới bị phạt 20-30 triệu đồng. Mức phạt này tăng mạnh so với quy định cũ tại điểm a khoản 2 Điều 56 Nghị định 167/2013/NĐ-CP (từ Chồng đánh vợ có thể bị xử lí theo pháp luật hình sự. Không những thế, nếu hành vi đánh đập vợ của người chồng gây nên hậu quả nặng nề, chủ thể thực hiện hành vi có thể bị xử lí theo pháp luật hình sự về Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ gN2qv. Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng là hành vi của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc gây hậu quả… 1. Căn cứ pháp lý Tội “vi phạm chế độ một vợ, một chồng” được quy định tại điều 182 BLHS 2015, trước đó được quy định tại Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 và tại Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985. Theo quy định tại điều 182 BLHS 2015, tội này được quy định cụ thể, chi tiết và dễ xác định hơn so với các điều luật cũ. Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm a Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; b Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; b Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. Điều luật quy định hành vi vi phạm chế độ một vợ và hành vi vi phạm chế độ một chồng, nhưng không vì thế mà cho rằng nếu người phạm tội có hành vi vi phạm chế độ một vợ thì định tội là “vi phạm chế độ một vợ” hoặc vi phạm chế độ một chồng thì định tội là “vi phạm chế độ một chồng”, vì dù chỉ hành vi vi phạm chế độ một vợ đang có vợ mà kết hôn với người khác thì cũng là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng rồi. Chế độ một vợ, một chồng là một nguyên tắc của hôn nhân tiến bộ. 2. Cấu thành tội phạm của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Chủ thể của tội phạm Cũng như chủ thể của các tội phạm khác chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng cũng phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định trong Bộ luật hình sự. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng. Chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tuy phải là chủ thể đặc biệt nhưng có một đặc điểm khác với chủ thể của các tội phạm khác ở chỗ người phạm tội phải là người đang có vợ hoặc có chồng hoặc một trong hai người phải là người đang có vợ hoặc đang có chồng. Hình minh họa. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Mặt khách quan của tội phạm – Người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có thể có một trong các hành vi sau + Đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. + Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn kể cả hôn nhân thực tế được pháp luật thừa nhận và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân. Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Hôn nhân thực tế là hôn nhân là hôn nhân có đủ điều kiện kết hôn về nội dung, chỉ vi phạm điều kiện về hình thức là không có đăng ký kết hôn. các điều kiện về nội dung là Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; việc chung sống với nhau được gia đình một hoặc cả hai bên chấp nhận; việc chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Hành vi sống chung như vợ chồng với người khác là hành vi của nam và nữ không có đăng ký kết hôn nhưng về sống chung với nhau như vợ chồng, có thể có tổ chức lễ cưới hoặc không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán; gia đình có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; họ sống với nhau như vợ chồng một cách công khai, mọi người xung quanh đều biết và cho rằng họ là vợ chồng. Sẽ không phải là sống chung với nhau như vợ chồng nếu như nam và nữ lén lút quan hệ tình dục với nhau theo quan niệm mà xã hội cho là “ngoại tình”. + Kết hôn với người khác trái pháp luật là hành vi lừa dối các cơ quan Nhà nước để đăng ký kết hôn hoặc tổ chức đám cưới theo phong tục, tập quán; người phạm tội có thể lừa dối đối với người mà mình kết hôn như nói dối là mình chưa có vợ, chưa có chồng hoặc tuy đã có vợ hoặc có chồng nhưng đã ly hôn hoặc đã chết làm cho người mà mình định kết hôn tin mà đồng ý kết hôn. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp cả hai người nam và nữ đều biết nhau đã có vợ hoặc có chồng nhưng vẫn cố tình lừa dối các cơ quan Nhà nước để được kết hôn trái pháp luật. + Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ là trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng biết rõ người khác đã có chồng, đã có vợ nhưng vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này. Khi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đã có chồng hoặc có vợ, người phạm tội phải biết rõ người mà mình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng là người đang có chồng hoặc có vợ. Nếu không biết rõ thì không phải hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Thông thường, trường hợp này người chưa có vợ, chưa có chồng nhất là người chưa có chồng bị người đang có vợ hoặc đang có chồng lừa dối nên mới kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này. – Hậu quả và mối quan hệ nhân quả Hậu quả của tội phạm này là hậu quả nghiêm trọng, nếu hậu quả gây ra chưa nghiêm trọng mà người phạm tội cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Hậu quả ở đây được liệt kê trong điều 182 BLHS 2015 như sau Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn, Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.; Mặt chủ quan của tội phạm Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng là do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ việc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng, thấy trước được hậu quả nghiêm trọng nhất định xảy ra hoặc có thể xảy ra, mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng người phạm tội thường bỏ mặc cho hậu quả nghiêm trọng xảy ra, miễn là được chung sống như vợ chồng với nhau. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chính là chế độ một vợ, một chồng, là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mà Luật hôn nhân và gia đình quy định; bảo vệ chế độ một vợ, một chồng khỏi bị xâm hại cũng chính là giữ vững nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình. 3. Hình phạt – Theo quy định của khoản 1 điều 182 BLHS 2015 thì người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Thuộc loại tội ít nghiêm trọng. – Khoản 2 quy định về tình tiết tăng nặng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm + Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; + Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng theo Bộ luật Hình sự 1. Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng theo Bộ luật Hình sự Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt như sau * Khung 1 Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm - Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; - Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. * Khung 2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm - Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; - Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. 2. Mức phạt hành chính hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng Nếu chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì người có hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng với các hành vi sau - Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; - Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; - Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ. Khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP 3. Thế nào là chung sống như vợ chồng? Theo khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng. Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cho hành vi chung sống như vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Quý khách hàng có thể tham khảo hướng dẫn hành vi chung sống như vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình 2000 tại Nghị quyết 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, cụ thể Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây - Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; - Việc họ về chung sống với nhau được gia đình một bên hoặc cả hai bên chấp nhận; - Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; - Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình một hoặc cả hai bên chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Diễm My Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email info Việc gây thương tích cho người khác bất kể người đó là ai thì cũng là một hành vi xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Vậy với trường hợp vợ đánh chồng thì việc truy cứu trách nhiệm sẽ diễn ra như thế nào? Hãy tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X. Căn cứ Bộ luật dân sự 2015 Bộ luật hình sự 2015 Luật Phòng, Chống bạo lực gia đình 2007 Nghị định 167/2013/NĐ-CP Nội dung tư vấn 1. Truy cứu trách nhiệm hành chính Hành vi đánh đập trong gia đình bất cứ là xuất phát từ nguyên nhân gì thì đều xâm phạm đến quy định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Cụ thể điều 42 Luật Phòng, Chống bạo lực gia đình 2007 có quy định như sau Điều 42. Xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. … Như vậy, nếu người trong gia đình có những hành vi xâm phạm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự và nhân phẩm của người trong gia đình mình thì sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự tùy mức độ. Bởi vậy, đối với việc vợ đánh chồng thì người vợ sẽ phải chịu trách nhiệm hanh chính hoặc hình sự. Khi chưa đủ yếu tố cấu thành nên tội phạm thì người vợ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hành chính. Căn cứ vào Nghị định 167/2013 có quy định về mức xử phạt như sau Điều 49. Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình 1. Phạt tiền từ đồng đến đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình. 2. Phạt tiền từ đồng đến đồng đối với một trong những hành vi sau đây a Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình; b Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. 3. Biện pháp khắc phục hậu quả Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này. Như vậy, có ba mức xử phạt cho hành vi trên đó là Phạt tiền 1-1,5 triệu đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình. Phạt tiền 1,5-2 triệu đồng đối với một trong những hành vi sau đây Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình; không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. Với mức độ nguy hiểm của hành vi nghiêm trọng hơn, hậu quả để lại cao hơn thì mức xử phạt có thể cao thêm. Ở đây, mức cao nhất mà người vợ phải chịu cho hành vi đánh chồng là 2 triệu đồng. Tất nhiên, tiền dùng để nộp phạt ở đây phải là tài sản riêng của vợ. Trên thực tế, việc phân định tài sản riêng của vợ chồng rất khó. Bởi vậy, rất ít những trường hợp bị tố cáo để truy cứu trách nhiệm hành chính. 2. Truy cứu trách nhiệm hình sự Trách nhiệm hình sự sẽ được đặt ra nếu như hậu quả của hành vi đủ điều kiện để truy cứu hình sự. Cụ thể thì nếu như Tỷ lệ thương tật của chồng do hành vi đánh đập của vợ trên 11%, hoặc dưới 11% nhưng trước đó đã bị xử phạt hành chính thì hoặc có những biểu hiện hành vi nguy hiểm như Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;.. thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mức phạt cao nhất có thể lên đến 14 năm. Cụ thể tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 có uqy định như sau Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; b Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; c Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; d Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; đ Có tổ chức; e Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; g Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; h Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; i Có tính chất côn đồ; k Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. … Pháp luật không ngoại trừ một ai cả. Bởi vậy, kể cả là vợ, dù chồng có sai như thế nào thì cũng không nên sử dụng bạo lực để đáp trả. Hy vọng bài viết có ích cho bạn! Khuyến nghị LSX là thương hiệu hàng đầu về dịch vụ luật sư bào chữa vụ án đánh người cố ý gây thương tích Việt Nam Nội dung tư vấn pháp luật mà LSX cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo. Để có những những tư vấn rõ ràng và cụ thể hơn, hãy liên hệ với chúng tôi ngay Để biết thêm thông tin chi tiết về dịch vụ của Luật Sư X, hãy liên hệ 0833102102 Bạo lực gia đình đang ngày càng trở thành vấn nạn đáng lên án của xã hội; gây mất trật tự trị an ở địa phương. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự; hôn nhân và gia đình ở địa phương cho thấy thực tế trong đời sống, bạo lực gia đình thường xuyên xảy ra nhưng do nhận thức và quan niệm của mỗi người nên chưa có những biện pháp xử phạt thích đáng. Trong khuôn khổ bài viết dưới đây, hãy cùng Luật sư X đi trả lời câu hỏi Chồng đánh vợ bị phạt như thế nào? Căn cứ pháp lý Bộ luật dân sự năm 2015 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 Nghị định 167/2013/NĐ-CP Nội dung tư vấn Chồng đánh vợ có thể bị xử lí hành chính. Những quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình được quy định tại điều 49, Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Tuỳ vào mức độ vi phạm mà người chồng sẽ bị xử phạt như sau Phạt tiền từ đồng đến đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đìnhPhạt tiền từ đồng đến đồng đối với một trong những hành vi sau đây Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình; Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nận nhân điều trị chấn trhương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nận nhân từ chối; Biện pháp khắc phục hậu quả Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu. Như vậy; với hành vi chồng đánh vợ có thể bị xử phạt hành chính lên đến 2 triệu đồng. Ngoài việc bị phạt tiền với hành vì đó người chồng sẽ phải xin lỗi công khai khi người vợ có yêu cầu. Chồng đánh vợ có thể bị xử lí theo pháp luật dân sự. Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007 có quy định nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền như yêu cầu cơ quan, tổ chức; người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng; nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình; yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc. Đây là những quy định thực sự thiết thực; và cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của nạn nhân bạo lực gia đình; đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, những chủ thể yếu thế trong xã hội. Bên cạnh đó; điều 42 của Luật này cũng ghi nhận; người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình… nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Những quy định này này là hoàn toàn phù hợp với quy định của điều 604 Bộ luật dân sự 2015 “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gấy thiệt hại thì phải bồi thường“. Tuy nhiên; trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình; người gây thiệt hại phải bồi thường và người được bồi thường lại là những thành viên trong cùng một gia đình với những mối quan hệ bền chặt về mặt tình nghĩa cũng như là về mặt kinh tế; nên công tác tiến hành việc xử phạt sẽ ít nhiều gặp khó khăn, khúc mắc. Chồng đánh vợ có thể bị xử lí theo pháp luật hình sự. Không những thế, nếu hành vi đánh đập vợ của người chồng gây nên hậu quả nặng nề, chủ thể thực hiện hành vi có thể bị xử lí theo pháp luật hình sự về Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình. Tội danh này được quy định tại Điều 185 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Cấu thành tội phạm của tội này được thể hiện qua bốn yếu tố như sau Chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình là chủ thể thể thường, là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên; trong trường hợp ngược đãi vợ hoặc chồng thì phải đủ độ tuổi kết hôn nam từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi. Khách thể của tội phạm. Khách thể của tội ngược đãi; hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình bao gồm hai đối tượng. Một là quan hệ gia là sức khỏe và tinh thần của người bị ngược đãi Mặt chủ quan của tội phạm Chủ thể thực hiện tội phạm với lõi cố ý trực tiếp. Người phạm tội đã biết trước được mối nguy hiểm trong hành vi ngược đãi của mình; nhận thức được rằng hành vi ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng của mình sẽ trực tiếp gây tổn hại đến các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ như quan hệ gia đình; sức khỏe tinh thần của người bị ngược đãi nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mặt khách quan của tội phạm Về hành vi khách quan Có hành vi ngược đãi hành hạ; thực hiện hành vi bạo lực gia đình; đánh đạp; giam hãm; cưỡng ép kết hôn…. Về hậu quả gười bị ngược đãi, hành hạ luôn bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị thương tích Mức hình phạt Nếu hành vi đánh đập của người chồng đáp ứng đủ bốn tiêu chí trên; thì người chồng sẽ bị xử lí hình sự về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; với các mức hình phạt tương ứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi như sau Khung hình phạt thứ nhất phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với những trường hợp sau Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Khung hình phạt thứ hai Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm đối với những trường hợp sau Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo. Theo đó; nếu người chồng thực hiện hành vi đánh đạp vợ của mình trong khoảng thời gian mà cô ấy có thai; hoặc người vợ là người khuyết tật nặng; khuyết tật đặc biệt nặng; hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo; thì hình phạt mà anh ta phải chịu lên tới 05 năm tù giam. Mời bạn đọc xem thêm Hành vi bạo lực gia đình đối với vợ, chồng bị xử phạt ra sao? Thông tin liên hệ Luật sư X Trên đây là tư vấn của Luật sư X về vấn đề “Chồng đánh vợ bị phạt như thế nào?” Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Để biết thêm thông tin chi tiết về dịch vụ của Luật Sư X, hãy liên hệ 0833102102 Câu hỏi thường gặp Bạo lực gia đình là gì?Bạo lực gia đình là một hành vi của bạo lực xã hội; được hiểu cố ý làm tổn thương hoặc gây tổn thương đến các thành viên trong gia đình ví dụ như đánh đập; dam hãm; cưỡng ép;… Bạo lực gia đình có thể tồn tại dưới những dạng nào?Bạo lực gia đình tồn tại ở các hình thức sau– Bạo về thể chất;– Bạo lực về tinh thần;– Bạo lực về kinh tế;– Bạo lực về tình dục…. Hậu quả của việc bạo lực gia đình?Việc thực hiện hành vi bạo lực gia đình sẽ dẫn đến những hậu quả sau– Gây tổn hại đến tinh thần, sức khỏe tính mạng của thành viên trong gia đình;– Tác động tiêu cực đến gia đình nói riêng đến nền kinh tế; xã hội nói chung; gây mất trật tự xã hội; đi ngược lại với quy định pháp luật. Tâm sự Thứ bảy, 20/3/2021, 0000 GMT+7 Chồng tôi có học vị cao, ăn nói điềm đạm, tính tình hiền lành, rất biết đối nhân xử thế. Tôi học vị thấp hơn chồng một bậc, tính nóng nảy, đanh đá, không dễ gì người ngoài bắt nạt được. Từ khi lấy chồng, tính tôi ôn hòa hơn nhiều, đó là nhờ chồng tôi rèn luyện, không biết nên cảm ơn chồng hay không nữa. Anh rèn tôi bằng cách hễ cứ nói việc gì không vào tai chồng hay làm gì sai sẽ quy ra đòn roi hết. Nhận đủ roi tôi mới được tha tội. Lấy nhau được gần 4 năm, cách phạt từ mức độ nhẹ thành rất nặng, đủ hiểu một người đàn ông nặng 78 kg dùng hết sức để đánh trong lúc tức giận khủng khiếp cỡ lần tôi tổn thương, cảnh cáo rằng lần sau anh không được đánh nữa, không ai có quyền đánh tôi cả. Chồng nói lại là lần sau cứ sai lại đánh. Xin hỏi có ai hoàn hảo và chồng tôi có chắc chắn không làm sai chuyện gì không? Không bao giờ tôi so đo từng chuyện cỏn con với chồng, vậy mà anh luôn xét nét tôi. Chồng còn viết ra giấy những tội của tôi để biết tôi phải nhận bao nhiêu roi. Tôi phải gọi bố mẹ hai bên sang nhà giải quyết, bố mẹ khuyên bảo nhưng chồng cho rằng việc đánh vợ là không sai. Bố mẹ tôi cấm anh không được làm thế anh mới thôi. Vậy nếu tôi không lên tiếng với bố mẹ, chắc chắn sẽ còn bị ăn đòn tôi nói chưa thấy người chồng nào như vậy, tính toán với vợ từng li từng tí, học cao hiểu rộng mà có những hành động như vậy. Chồng còn luôn so đo việc quét mạng nhện trần nhà với tôi. Anh mách mẹ chồng rằng tôi bắt anh phải làm điều đó, trong khi việc ấy toàn một tay tôi làm. Tôi nhờ chồng thì có gì sai mà anh luôn cho rằng tôi phải làm việc đó 100%. Nếu để người ngoài nhận xét về vợ chồng tôi thì chắc chắn mọi người sẽ nói chỉ tôi bắt nạt chồng chứ chồng hiền thế sao bắt nạt tôi được. Thực tế không ở trong chăn không biết chăn có giận, mọi người nói thế nào thì nói, dù tôi có giải thích thì mặc định tôi đanh đá nên bắt nạt chồng là đương nước vỡ bờ, không phải chỉ đàn ông mới biết dùng vũ lực, phụ nữ chúng tôi cũng không thiếu cách đối phó với chồng, vấn đề là muốn hay không. Tôi nhận mình có nhiều thiếu xót nhưng với cách xử phạt của anh thì không phục. Tôi không hoàn mỹ và chồng cũng vậy, thế nhưng anh không bao giờ nhận sai thì có tư cách gì dạy bảo tôi. Đã không tử tế với vợ thì cuộc hôn nhân này tôi sẽ là người quyết định tồn tại hay không. Cảm ơn độc giả lắng giả gọi vào số09 6658 1270để được hỗ trợ, giải đáp thắc mắc

chồng phạt đòn vợ