Lá số tử vi DƯƠNG NỮ sinh năm BÍNH DẦN (LƯ TRUNG HỎA) giờ TÍ ngày 16 tháng 1 Âm Lịch. Cung Mệnh, Thân đồng cung Vô Chính Diệu an tại Dần.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ. cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên. quan đến các tội vô
Tội vô ý làm chết người được pháp luật trong bộ luật Hình sự hợp nhất số 01 / VBHN-VPQH – Tội vô ý làm chết người được lao lý trong bộ luật Hình sự hợp nhất số 01 / VBHN-VPQH ( Hợp nhất Bộ luật Hình sự số 100 / năm ngoái / QH13 và Bổ sung Luật số 12/2017 / QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội sửa
Về tội Vô ý làm chết người Điều 128 Bộ luật Hình sự quy định: “Điều 128. Tội vô ý làm chết người. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì
thực tiễn xét xử các tội vô ý làm chết người ở nước ta hiện nay. tình hình xét xử tội vô ý làm chết người. tình hình xét xử tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh vừa hoàn tất cáo trạng chuyển Tòa án nhân dân tỉnh để đưa ra xét xử bị cáo Phạm Văn Nam về tội giết người, theo khoản 2, điều 123, Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều này khiến dư luận băn khoăn bởi thời điểm vụ việc xảy ra, Phạm Văn Nam bị một nhóm người vô cớ đánh
xHxwQ. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÍ THỊ NGỌC HƢƠNG TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI–2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÍ THỊ NGỌC HƢƠNG TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành Luật hình sự Mã số 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học Nguyễn Tất Viễn HÀ NỘI-2011 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM5 Sự cần thiết quy định tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam 5 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vô ý làm chết người 9 Khái niệm 9 Các dấu hiệu pháp lý của tội vô ý làm chết người 13 thể của tội phạm 13 khách quan 17 thể 27 chủ quan 30 Chương 2 PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI QUA CÁC THỜI KỲ 36 Tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam trước năm 1945 36 Tội vô ý làm chết người trong Quốc triều Hình luật 36 Tội vô ý làm chết người trong Hoàng Việt luật lệLuật Gia 40 2Long Tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ Hình luật CanhCải, Hình luật Bắc Kỳ, Hình luật Việt Nam thời Pháp thuộc 42 Tội vô ýlàm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 46 Tội vô ý làm chết người theo quy định của pháp luật hình sự của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 46 Tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ Hình luật 1972 của chính quyền Ngụy quyền Sài Gòn 47 Tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Hình sự năm 1999 48 Phân biệt tội vô ý làm chết người với một số tội phạm theo qui định của Bộ luật Hình sự năm 1999 52 Phõn biệt tội vô ý làm chết người Điều 98 với tội làm chết người trong khi thi hành công vụ Điều 97 theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 53 Phõn biệt tội vô ý làm chết người với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính 54 Phõn biệt tội vô ý làm chết ngườivới tội vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ -trường hợp dẫn đến hậu quả chết người 55 Phân biệt tội vô ý làm chết người điều 98 với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng Điều 102 Bộ luật Hình sự năm 1999 57 Qui định về tội vô ý làm chết người trong Pháp luật hình sự một số nước 58 Tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sựcủa nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 58 Tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sựLiên bang Nga 59 Tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sựThái Lan 60 Tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Thụy Điển 61 Tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ luật Hình sựCộng hòa Liên bang Đức 63 Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ66 Tình hình tội vô ý làm chết người ở Việt Nam hiện nay 66 Số vụ và số bị cáo phạm tội vô ý làm chết người 66 Cơ cấu và tính chất của tội vô ý làm chết người 66 Công cụ, phương tiện phạm tội 73 Động thái diễn biến của tội vô ý làm chết người 83 Những vướng mắc trong quá trình xử lý tội phạm vô ý làm chết người 85 Vướng mắc trong pháp luật 86 Vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật 88 Vướng mắc trong hoạt động tố tụng 90 Vướng mắc trong tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật 98 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội Vô ý làm chết người trong giai đoạn hiện nay 99 Kiến nghị về pháp luật và áp dụng pháp luật 100 Kiến nghị về hoạt động tố tụng Kiến nghị về thông tin, tuyên truyền phổ biến pháp luật 102KẾT LUẬN 105DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 PHỤ LỤCDANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảngTên bảngTrang kê xét xử sơ thẩm hình sự về tội vô ý làm chết người ở Việt Nam giai đoạn 2006 -201066 kê số vụ phạm tội vô ý làm chết người và số vụ phạm tội nói chung đã được xét xử sơ thẩm ở Việt Nam giai đoạn 2006 -201067 kê số bị cáo phạm tội vô ý làm chết người và số vụ phạm tội nói chung đã được xét xử sơ thẩm ở Việt Nam giai đoạn 2006 -201068 kê số vụ phạm tội vô ý làm chết người và số vụ phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói chung đã được xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006 -201069 kê số bị cáo phạm tội vô ý làm chết người và số vụ phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói chung đã được xét xử ở Việt Namgiai đoạn 2006 -201070 kê số vụ phạm các tội xâm phạm tính mạng đã được xét xửở Việt Nam giai đoạn 2006 -201070 kê số bị cáo phạm các tội xâm phạm tính mạng đã được xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006-201071 kê hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phạm tội vô ý làm chết người ở Việt Nam giai đoạn 2006-201072 kê xét xử sơ thẩm hình sự về tội phạm nói chung ở Việt Nam giai đoạn 2006 -201083 kê xét xử sơ thẩm hình sự về tội vô ý làm chết người ở Việt Nam giai đoạn 2006 -201085 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồTên biểu đồTrang cấu số vụ án phạm tội vô ý làm chết người trong tội phạm xâm phạm tính mạng đã được xét xử sơ thẩm ở Việt Nam giai đoạn 2006201068 vụ và số bị cáo phạm tội hình sự nói chung đã được xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006-201084 thái của tội vô ý làm chết người đã được xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006 -201085 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tàiTính mạng của con người làgiá trị cao quý nhất của con người. Quyền sống là quyền cơ bản, hàng đầu của con người. Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, là đạo luật gốc mà các văn bản pháp luật khác phải tuân theo. Quyền sống của con người được qui định tại điều 71 Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, được cụ thể hóa tại các điều 32, 609 Bộ luật Dân sự, Điều 8, Điều 24Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Bộ luật Hình sựnăm 1999 được Quốc hội khóaX nước Cộng hòaxã hội chủ nghĩa Việt Namthông qua tại kỳ họp thứ 6 từ ngày 18/11 đến ngày 21 tháng 12 năm 1999 đã dành chương XII quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đây là chương thứ hai phần các tội phạm cụ thể, chỉ đứng sau chương quy định về các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều đó cho thấy vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của quyền thời gian qua, quyền sống -tính mạng của công dân được bảo đảm trên nhiều phương diện. Tuy vậy, còn khá nhiều nguy cơ đe dọasự sống của con người cần được phòng ngừa, ngăn chặn và chống lại như các hành vi xâm phạm tính mạng của con người. Trong những năm gần đây, tội phạm xâm phạm tính mạng nói chung và tội phạm vô ý làm chết người nói riêng có chiều hướng gia tăng về tính nguyhiểm cho xã hội của hành vi, phức tạp, tinh vi về thủ đoạn. Tính chất tội phạm rất nghiêm trọng. Công tác đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Về mặt lý luận cho đến nay, ít có công trình về vấn đề này. Bên cạnh đó, còn nhiều tranh cãi trên thực tế khi xác định lỗi của người có hành vi làm chết người. Về thực tiễn, các cơ quan pháp luật còn lúng túng trong việc định tội danh. Do vậy, cần nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ về vấn đề này. Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Tội vô ý làm chết người trong luật hình sự Việt Nam"là rất cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tàiNhóm đề tài liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người vẫn luôn là nhóm đề tài được quan tâm nghiên cứu. Đáng chú ý là bình luận khoa học Bộ luật Hình sựViệt Namnăm 1999 được nhiều tập thể các tác giả nghiên cứu và xuất bản như "Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Namnăm 1999",do Uông Chu Lưu chủ biên,Nxb Chính trị quốc gia, 2001; "Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Namđãđược sửa đổi bổ sung năm 2009",do TS. Trần Minh Hưởng chủ biên,NxbLao động, 2009;"Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự -phần các tội phạm tập I -Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, Bình luận chuyên sâu", của Đinh Văn Quế,NxbThành phố Hồ Chí Minh, 2006,...;"Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người", của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chínhtrị quốc gia,2000; "Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm",của Nguyễn Xuân Yêm,NxbCông an nhân dân,2001; "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người -so sánh giữa Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 1985", Tạp chí Luật học, số 01/2001;Luận án tiến sĩ Luật học"Tội giết người trong luật hình sự Việt Namvà đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này", của Đỗ Đức Hồng Hà...Trên thế giới có công trình của tác giả Ugrekhelidze"Vấn đề lỗi vô ý trong luật hình sự",NxbMesniereba Tbilixi,1976, nói về lỗi vô ý trong các tội phạm cấu thành vật chất và các tội phạm cấu thành hình thức. Trong đó, có nhiều nội dụng liên quan đến tội vô ý làm chết người. Trước đó đã có công trình của Makashvili về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm do vôýcủa Nhà xuất bản Matxcơva 1957. Trong đó có đề cập đến vô ý gây chết người trong lý luận và thực tiễn của luật hình sự Xô viết. Tuy nhiên,chưa có công trình nào tại Việt Namnghiên cứu riêng về tội vô ý làm chết người. Do vậy, cần có một công trình nghiên cứu về tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tàiMục đích Làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vô ý làm chết người. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội vô ý làm chết người đề xuất một số kiến nghị nhằm đấu tranh có hiệu quả loại tội phạm vụĐề tài làm rõ mặt lý luận về hành vi vô ý làm chết người, khái niệm tội vô ý làm chết người, giới hạn can thiệp của pháp luật hình sự đối với tội vô ý làm chết người. Sự cầnthiết phải tội phạm hóa hành vi vô ý làm chết cứu các qui định của pháp luật hình sự Việt Namvề tội vô ý làm chết người trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam, qui định về tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự một số nước trên thế cơ sở số liệu thực tiễn, tổng kết đánh giá những vướng mắc trong việc áp dụng Bộ luật Hình sựvề tội vô ý làm chết người. Trong đó, phân tích thực tiễn tội vô ý làm chết người trong giai đoạn hiện nay, đồng thời phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luậtđối với tội vô ý làm chết người của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị. 4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiêncứuĐề tài được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự về tội phạm và người phạm tội xâm phạm tính mạng con người trong những năm vừa qua. 5. Phƣơng pháp nghiên cứuĐề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng làPhương pháp hệ thống hóa, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh luật học, phương pháp thống kê... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tàiĐề tài là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu làm rõ những cơ sởlý luận và thực tiễn về tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sự Việt tài phân tích khái niệm, dấu hiệu pháp lý về tội vô ý làm chết người, đồng thời phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác cũng có dấu hiệu vô ý làm chết tài khái quát tình hình áp dụng pháp luật trong thời gian hiện nay và thực tiễn xét tích một số khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội vô ý làm chết người và đề xuất một số kiến quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, học tập, đồng thời cung cấp cho cán bộ làm công tác thực tiễn những hướng dẫn, chỉ dẫn cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm này trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấucủaluận vănNgoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảovàphụ lục,nội dung củaluận văn gồm 3 chương Chương 1 Cơ sở lý luận của việc quy định tội vô ý làm chết người trongBộ luật Hình sựViệt Nam. Chương 2 Pháp luật hình sự Việt Namvề tội vô ý làm chết người qua các thời kỳ. Chương 3 Thực tiễn áp dụng qui định của pháp luật hình sự về tội vô ý làm chết người và một số kiến nghị. Chương 1CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜITRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Con người là tế bào của xã hội, là vốn quý nhất của xã hội, là chủ thể của quan hệ xã hội cần được xã hội công nhận và bảo vệ các quyền con các quyền con người thì quyền thiêng liêng và cao quý nhất là quyền sống. Đó là điều có ý nghĩa quan trọng nhất đối với bất kỳ cá nhân nào và là cơ sở để mỗi cá nhân con người có thể thực hiện được các quyền khác của mình được pháp luật công nhận và bảo vệ. Con người và các quyền con người trở thành đối tượng quan trọng được luật hình sự nói riêng và pháp luật nói chung bảo vệ. Các lĩnh vực liên quan đến con người đượcpháp luật hình sựbảo vệ bao gồmnhiều nội dung, nhưng nội dung trước tiên và quan trọng nhất đó là bảo vệ tính mạng của con người. Khi có hành vi xâm phạm đến quyền sống của con người nó sẽ làm đảo lộn và phá vỡ các quan hệ xã hội, gây thiệt hại nghiêm trọng cho bản thân và gia đình nạn nhân, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự xã hội. Hành vi này cần được trừng trị một cách thích đáng, nghiêm khắc. Hành vi xâm phạm đến quyền sống -hay xâm phạm tính mạng con người có nhiều dạng, với nhiều hình thức lỗi khác nhau cố ýhoặc vô ý. Nhưng cho dù dưới hình thức lỗi nào thì hành vi này đều thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội ở mức cao. Nguy hiểm nhất trong nhóm hành vi xâm phạm tính mạng con người là hành vi giết người. Hành vi này thể hiện ý chí cố ý tước đoạt tính mạng của người khác. Do tính nguy hiểm cao độ nên trong pháp luật hình sựtừ xưa đến nay ở bất kỳ quốc gia, hay bất kỳ chế độ, bất kỳ nhà nước nào cũng nghiêm trị hành vi giết người và áp dụng những hình phạt nghiêm khắc nhất như tử hình Điều 93, Bộ luật Hình sự năm 1999, chém Điều 474 Quốc triều Hình luật... Hành vi vô ý làm chết người được thực hiện với lỗi vô ý, mức độ nguy hiểm thấp hơn so với hành vi giết người. Nhưng cho dù vô ý cũng đã thể hiện sự nguy hiểm cao đối với xã hội. Do vậy việc quy định là tội phạm trong luật hình sự để đấu tranh phòng ngừa và chống hành vi nguy hiểm này thực sự cần thiết. Không những vậy, chế tài đưa ra cũng cần nghiêm khắc mới đáp ứng được đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội tính nguy hiểm cho xã hộicủa hành vi là đáng kể, được coi là tội phạm và phải chịu hình phạt trong luật hình sự thì pháp luật hình sựtrở thành công cụ hữu hiệu tác động đến hành vi sai lệch này. Đồng thời tác động đến ý thức của người dân nói chung tạo ra một ranh giới trong ý thức của họ về việc thực hiện các hành vi của mình và đấu tranh phòng chống hành vi vi phạm pháp luật này. Đây chính là thái độ của xã hội đối với hành vi đi ngược lại những chuẩn mực xã hội, đi ngược lại lợi ích của xã hội. Việc chịu hình phạt đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Quá trình chấp hành hình phạt, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có điều kiện để cải tạo, giáo dục bản thân trở thành người có ích cho xã hội. Việc quy định phù hợp giữa tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm và hình phạt có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó phát huy hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Hành vi càng thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội cao bao nhiêu thì hình phạtđối với hành vi ấy phải càng nghiêm khắc bấy nhiêu. Khi hai yếu tố này tương xứng sẽ góp phần giảm thiểu mặt trừng trị của hình phạt. Không chỉ cộng đồng xã hội nói chung mà ngay cả người phạm tội cũng nhận thấy hình phạt cho mình như vậy là thích đáng. Có như vậy, bản thân họ mới có thể cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong thực tiễn có rất nhiều hành vi xâm phạm tính mạng con người với nhiều hình thức lỗi khác nhau cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp, vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả. Đối với trường hợp người phạm tội cố ý bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp xâm phạm tính mạng, thì tội danh được xác định luôn là giết người, hoặc giết người có dự mưu... trường hợp vô ý xâm phạm tính mạng con người thì được xác định là vôý làm chết người. Việc xâm phạm tính mạng con người trong trường hợp này thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội. Trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Namviệc nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi này đã được các nhà nước nhậnthức rõ và đã quy định tội vô ý làm chết người từ rất sớm. Do kỹ thuật lập pháp ở mỗi giai đoạn lịch sử có khác nhau, nên việc quy định trong các văn bản pháp quy mỗi thời mỗi khác. Nhưng tựu trung lại, đều thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà nước trước hành vi nguy hiểm này. Quy định tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sựlà công cụ pháp lý để Nhà nước -thông qua bộ máy của mình -đấu tranh phòng chống tội phạm. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử những năm qua cho thấy rằng, mỗi loại tội phạmcó tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, phương pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng khác nhau. Nhưng cho dù như thế nào thì chúng đều gây những thiệt hại nhất định cho các quan hệ xã hội. Chúng là những hiện tượng xã hội tiêu cực cần phải được ngăn chặn, hạn chế và từng bước loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm vô ý làm chết người nói riêng và tội phạm nói chung đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách có hệ thống, đồng bộ, đồng thời sửdụng nhiều biện pháp khác nhau, không ngừng bổ trợ, tương hỗ cho nhau để phát huy mặt tích cực và hạn chế những điểm yếu của từng biện pháp. Trên cơ sở đó, phát huy tốt nhất hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đây không phải là nhiệm vụ của riêng ai. Từ hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp, cơ quan tư pháp, đến các tổ chức chính trị, chính trị xã hội và đặc biệt quan trọng đó là ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của chính mỗi người dân. Đồng thời sử dụng nhiều biện pháp từ những biện pháp nhẹ nhàng như giáo dục, thuyết phục, rồi tăng dần đến các biện pháp cưỡng chế -trong đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất. Trước đòi hỏi đó, Bộ luật Hình sựđầu tiên năm 1985 đã quy định tội vô ý làm chết người tại Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên tại quy định năm 1985, cấu thành tội phạm vô ý làm chết người được quy định gộp hai loại hành vi trong một cấu thành tội phạm chung. Bao gồm hành vi vô ý làm chết người và hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Do hai hành vi làm chết người này có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là khác nhau. Do đó, việc quy định như vậy chưa đáp ứng được đòi hỏi của việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Đồng thời,hai tội phạm này có những đặc điểm riêng, yêu cầu đặt ra là hai hành vi này cần thiết phải xây dựng thành các cấu thành tội phạmcủa các tội danh khác nhau. Việc quy định riêng biệt cấu thành tội phạmcủa chúng là cơ sở để quy định dấu hiệu trong mỗi cấu thành tội phạmphù hợp ở mức cao nhất với đặc điểm và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hình phạt tương ứng. Đồng thời cho phép tiếp tục phân hóa các cấu thành tội phạmnày trong phạm vi từng tội danh. Điều này thể hiện ở việc đối với cùngmột loại hành vi vô ý làm chết người cũng có nhiều mức độ nguy hiểm khác nhau cần thiết phải tiếp tục phân hóa theo từng khoản một để có thể đưa ra khung hình phạt phù hợp. Bên cạnh việc phân hóa hành vi nguy hiểm cho xã hội của các loại hành vi khác nhauthành các cấu thành tội phạmđộc lập, mỗi cấu thành tội phạmcũng cần phải phản ánh đúng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Xem xét phân tách cấu thành tội phạmcơ bản, cấu thành tội phạmtăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sựcũng góp phần phân hóa trách nhiệm hình sựcủa từng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Hành vi vô ý làm chết người trong mỗi trường hợp khác nhau là khác nhau. Nhưng để đảm bảo yêu cầu của phân hóa trách nhiệm hình sự, việc cụ thể hóa trách nhiệm hình sựtheo tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là rất cần thiết. Trường hợp vô ý làm chết một người và vô ý làm chết nhiều người tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi có sự khác biệt lớn. Chia tách theo từng mức độ như vậy là cơ sở để chúng ta đưa ra mức chế tài phù hợp. Sự phân hóa trách nhiệm hình sựcàng triệt để bao nhiêu thì sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi bấy nhiêu cho công tác cá thể hóa trách nhiệm hình sựtrong thực tiễn xét xử. Từ những đòi hỏi nêu trên, Bộ luật Hình sựnăm 1999 táchhành vi vô ý làm chết người quy định thành một tội độc lập với hai cấu thành tội phạmcấu thành cơ bản tại khoản 1 và cấu thành tăng nặng trách nhiệm hình sựtại khoản 2 Điều 98 là thật sự đúng đắn và cần thiết đáp ứng được đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI Khái niệm"Vô ý làm chết người"hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các trường hợp vô ý làm chết người được quy định trong các đạo luật hình sự và văn bản hướng dẫn thi hành, văn bản pháp luật hình sựtừ trước tới nay. Nghiên cứu về khái niệm vô ý làm chết người trong các văn bản đó là nghiên cứu về khái niệm "vô ý làm chết người"nói chung. Trong phạm vi luận văn này, học viên tập trung nghiên cứu tội vô ý làm chết người theo quy định tại Điều 98 Bộ luật Hình sự1999. Những trường hợp vô ý làm chết người khác như "làm chết người trong khi thi hành công vụ", "vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính", "không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng", "vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ -dẫn đến chết người", ...quy định tại các điều 97, 99, 102, 202,... Bộ luật Hình sựchỉ được nghiên cứu ở từng khía cạnh để so sánh, đối chiếu với "Tội vô ý làm chết người"tại Điều 98 Bộ luật Hình sự thế giới có hai cách qui định tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự. Cách thứ nhất đó là đưa ra một quy phạm mang tính chất định nghĩa về tội vô ý làm chết người trong luật thực định. Cách thứ hai đó là không đưa ra một quy phạm mang tính chất định nghĩa về tội vô ý làm chết người trong lụât thực định. pháp luật hình sựViệt Namquy định theo cách thứ hai. Do đó, không đưa ra khái niệm tội vô ý làm chết người trong luật thực khoa học pháp lý hình sự Việt Namcó nhiều khái niệm khác nhau về tội vô ý làm chết người. Khái niệm thứ nhất cho rằng "Vô ý làm chết người là hành vi của một người làm cho người khác chết với lỗi vô ý"[27, tr. 68]. Phân tích khái niệm trên ta thấy thứ nhất về nội dung không đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sựvà các dấu hiệu của chủ thể đối với tội phạm này. Thứ hai, ta thấy có sự luẩn quẩn trong khái niệm trên. Đặt yếu tố lỗi sang một bên để xem xét, ta thấy, khái niệm trên không phân tách giữa khái niệm và nội hàm của khái niệm đồng thời không thể hiện nội hàm của khái niệm. Khái niệm trên có thể viết thu lại thành...làm chết người là hành vi của một người làm cho người khác chết...Đưa ra khái niệm về vô ý làm chết người trong tội vô ý làm chết người, Thẩm phán -ThS. Đinh Văn Quế đã nêu như sau "Vô ý làm chết người là hành vi của một người không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra"[31, tr. 104]. Trong khái niệm đã nêu rõ nội dung của hai hình thức lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả trong yếu tố lỗi vô ý. Tuy nhiên, chúng ta thấy, khái niệm này nặng về việc xác định hình thức lỗi hơn là việc đưa ra một khái niệm đủ sức để cá biệt hóa hành vi vô ý làm chết người với các hành vi của các tội phạm kháccũng có dấu hiệu vô ý làm chết người. Khái niệm trên cũng chưa nêu hậu quả của hành vi đó là phải gây ra cái chết cho người khác. "Chết người"trong khái niệm trên mới ở dạng tiềm năng "khả năng gây ra cái chết". Khái niệm trên cũng giống như khái niệm thứ nhất chưa đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và các dấu hiệu của chủ thể đối với tội phạm này, đồng thời khái niệm này chưa làm rõ được ranh giới giữa hành vi của tội vô ý làm chết người và các hành vi của các tội phạm khác cũng có dấu hiệu vô ý làm chết người. Về hành vi Trong luật hình sự Việt Nam, hành vi vô ý làm chết người không chỉ có trong tội vô ý làm chết người mà còn có trong một số tội phạm được qui định tại các điều luật khác ví dụ như "Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ"; "Tội làm chết người do vi phạm qui tắc nghề nghiệp hoặc qui tắc hành chính";"Tội vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ"...Về cơ bản, trong những trường hợp này cũng là vô ý làm chết người, do vậy khái niệm tội vô ý làm chết người phải phân biệt được ranh giới giữa tội vô ý làm chết người với các tội phạm khác cũng có dấu hiệu vô ý làm chết người. Hành vi vô ý làm chết người để xác địnhtội phạm và hình phạt theo qui định tại Điều 98 Bộ luật Hình sựvới tội danh "Tội vô ý làm chết người"là trường hợp hành vi vô ý gây ra cái chết cho người khác trong điều kiện sinh hoạt thông thường. Những hành vi phát sinh từ sinh hoạt hằng ngày là vô cùng phong phú, muôn hình vạn trạng. Trong hầu hết các lĩnh vực chứa đựng những nguy cơ hay nguồn nguy hiểm, đều có những nguyên tắc đảm bảo an toàn. Khi thực hiện hành vi đòi hỏi chúng ta phải nắm được và tuân thủ những quy tắc an toàn để phòng ngừa và tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra, phải cân nhắc, xem xét trước khi đi đến một hành động cụ thể. Nếu trong quá trình thực hiện, chúng ta bỏ qua những nguyên tắc đảm bảo an toàn, gây thiệt hại về tính mạng cho người khác, người thực hiện hành vi đó có thể trở thành tội phạm vô ý làm chết người. Về dấu hiệu hậu quả chết người Việc vi phạm quy tắc an toàn trong sinh hoạt thông thường thật sự nguy hiểm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sựkhi gây thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được pháp luật hình sựbảo vệ. Việc gây ra hậu quả chết người là rất nghiêm trọng. Hành vi này thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm của nó khi có hậu quả chết người xảy ra. Do vậy quy định hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm mới thể hiện hết được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Đồng thời, hậu quả chết người này phải là kết quả của việc thực hiện hành vi. Hay nói cách khác là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người. Hành vi vi phạm phải chứa đựng trong nó nguy cơ thực tế dẫn đến hậu quả. Hậu quả chết người xảy ra phải là hậu quả tất yếu do hành vi vi phạm quy tắc bảo đảm an toàn đó gây ra. Và về mặt thực tế, hậu quả đó đã xảy ra. Về yếu tố lỗi Nguyên tắc có lỗi là một nguyên tắc cơ bản. Không có lỗi thì không có tội phạm. Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình vì hành vi của con người có tính tất yếu. Đồng thời, hành vi còn được chi phối bởi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người. Đây chính là sự tự do lựa chọn và tự do điều khiển hành vi của con người. Khi họ có đủ các điều kiện để tự do lựa chọn, tự do điều khiển hành vi, nhưng họ đã lựa chọn hành vi phạm tội, như vậy, họ đã có lỗi trong việc lựa chọn, quyết định và thực hiện hành vi phạm tội. Trước những đòi hỏi của xã hội, người phạm tội đã dùng ý chí và lý trí để lựa chọn hành động đi ngược lại với những đòi hỏi của xã hội. "Người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội trong khi có tự do lựa chọn thì có nghĩa họ là người có lỗi"[19, Chỉ coi là Tội vô ý làm chết người khi tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý gây ra hậu quả chết người, bao gồm cả khi họ đã nhận thức được hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc họ có thể ngăn ngừa được lỗi vô ý vì quá tự tin và khi họ do cẩu thảnên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả này lỗi vô ý vì cẩu thả Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 1999.Bên cạnh những đặc trưng riêng về hành vi, về hậu quả, về yếu tố lỗi của tội Vô ý làm chết người, để đảm bảo sự đầy đủ của một khái niệm, trong khái niệm cũng cần phải nêu được điều kiện về chủ thể của tội phạm như năng lực trách nhiệm hình sựvà tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Cũng là hành vi vi phạm các quy tắc sinh hoạt thông thường, cũng là hậu quả chết người, cũng với lỗi vô ý, nhưng nếu tội phạm được thực hiện bởi chủ thể là người không có năng lực trách nhiệm hình sự, chưa đủ tuổi thì cũng không cấu thành tội phạmVô ý làm chết người. Bên cạnh đó, trên cơ sở khoa học chúng ta thấy rằng một định nghĩa khoa học nhất thiết phải đáp ứng được bốn tiêu chí chủ yếu là "Chặt chẽ về mặt lôgic, chính xác về mặt ngôn ngữ, ngắn gọn về mặt hình thức cấu trúc và đầy đủ về mặt nội dung"[2, đưa ra khái niệm nói chung hay khái niệm về tội vô ý làm chết người cũng vậy, trong khái niệm phải nêu bật được những đặc trưng của tội phạm này về khách thể quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ;về mặt khách quan giới hạn về hành vi làm chết người xem xét xử lý về tội vô ý làm chết người, hậu quả chết người, mối quan hệ nhân quả; về mặt chủ quan yếu tố lỗi, về chủ thể... Thông qua định nghĩa, phải thấy rõ được phạm vi điều chỉnh hay giới hạn của tội phạm những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về tội Vô ý làm chết người như sau Tội vô ý làm chết người là hành vi gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật trong điều kiện sinh hoạt thông thường, do người có năng lực trách nhiệm hình sựvà đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện một cách vô ý. Cácdấu hiệu pháp lý của tội vô ý làm chết ngƣời
bình luận tội vô ý làm chết người